Lời Giới Thiệu
Nhà
văn Trần Đ́nh Lương biên soạn
“Người
từ là từ phương Bắc, đă
qua ḍng sông, sông dài
...” là
cầu hát trích đoạn trong nhạc
phẩm Duyên T́nh do nhạc sỹ Xuân
Tiên sáng tác. Ông cũng
dùng
tựa đề này cho tuyển tập nhạc
“Duyên T́nh” do
chính ông xuất
bản tại Úc Đại Lợi năm 1997.
Thực sự ḍng sông ấy không
dài về mặt địa lư, nhưng lại hun hút
về mặt lịch sử, về máu và nước mắt đă
tuôn theo năm tháng chiến tranh khốc liệt. Thời
gian từ ngày những con người “từ phương Bắc.. qua
ḍng sông tới nay đă khá xa,
đủ cho ta sự b́nh tĩnh để nh́n về một biến cố
lịch sử và từ đó hiểu rơ hơn về sự
phát triển lớn mạnh của một trào lưu văn học nghệ
thuật tại miền Nam Việt Nam vào ngày
đó.
‘Mai sau c̣n có bao giờ’.. *
Về mặt văn học, năm 1987
nhà văn Vơ Phiến đă dựng ‘
một lá phướn’
cho ‘ hai mươi cho văn học Miền Nam’ trong
đó có nhiều
điều cần biết về văn học và ḥan cảnh
sáng
tác của các văn nghệ sĩ.
C̣n về mặt nghệ thuật, về âm nhạc, th́
chưa thấy ai
làm công việc đó. Có chăng
là một số
bài nhận xét rải rác trong
các tạp
chí văn nghệ hải ngoại, thường nặng về cảm tính
và
nhẹ phần chuyên môn.
Tôi
vẫn mong vô cùng được đọc một công
tŕnh biên khảo nghiêm túc về
âm nhạc
Việt Nam trong thời kỳ này. Đấy là thời kỳ được
mùa của những ca khúc nở rộ. Nhiều lạ
lùng
và cũng hay lạ lùng. H́nh như
không tuần
nào là người ta không nghe thấy những
sáng
tác mới. Chưa ai làm công
tác thống kê
những con số, sáng tác ít nhất phải kể
tới
hàng ngàn, con số nhạc sĩ phải kể tới
hàng trăm.
Để cạnh nhạc 20 năm ấy với nhạc tiền chiến trước kia, ta thấy
có
nhiều sự khác biệt. Khác biệt vô
cùng cả về
nhạc và lời. Ngôn ngữ của những ca khúc
thời sau
đă trở nên mới mẻ hơn, hiện thực hơn, âm
điệu cũng
phong phú và đa dạng hơn trước. C̣n
hơn như thế
nào về mặt âm nhạc th́ đó
là
lănh vực nghiên cứu của các vị
chuyên
môn sau này.
Cho đến nay, hơn 20 năm nữa đă trôi qua, nhạc của
những
ngày hội lớn ấy vẫn c̣n lẽo đẽo theo
gót những con
người Việt Nam đi tứ xứ và vẫn lai rai xuất hiện tại
quê
nhà. Vậy mà những con người làm
nên nền
âm nhạc ấy th́ rất ít khi được nhắc
tới, và
thỉnh thoảng cái cảnh ‘vàng bay mấy
lá’ vẫn diễn
ra.
Tôi viết những ḍng này như một lời tri
ân
tới một trong những nghệ sĩ tài hoa ngày
đó,
đă làm giàu cho tâm hồn
tôi, đă
cho tôi thấy cuộc đời đẹp hơn, có ư
nghĩa hơn qua
những lời ca, nét nhạc
Tôi được may mắn gặp nhạc sĩ Xuân Tiên,
dù
khá muộn màng, được nghe ông kể chuyện
ngày
xưa và rồi cùng một nhóm anh em
yêu nhạc
hát lại nhạc ông trong một niềm bồi hồi
‘tha hương ngộ cố
tri’. Thực sự mà nói chúng
tôi ngày
ấy rất c̣n nhỏ chỉ hát nhạc ông chứ
đâu được
hân hạnh quen biết với ông mà
dám nói
tới hai tiếng cố tri!
Sau nhiều lần gặp nhạc sĩ Xuân Tiên,
chúng tôi
đều đồng ư với nhau rằng ông c̣n rất
trẻ, trẻ hơn
chúng tôi rất nhiều.
Ở ông cái ‘nguồn sống bao la’
của những 50 vẫn c̣n
cuộn chảy, vẫn reo vui và tươi mát. Ông
yêu
đời lắm. Tiếng cười ông cất lên là thấy
ngay sự sảng
khoái, vô ưu. Tới nay ông vẫn tiếp tục
sáng
tác, vẫn làm đàn, chơi đàn,
thổi sáo
mà chẳng cần ai biết ai hay. Tinh thần lạc quan
bát
ngát đó là tinh thần xuyên
suốt toàn
bộ ca khúc của ông, tính
cách của ông
và điều này không hề tùy
thuộc vào
hoàn cảnh. Lớp văn nghệ sĩ ‘di cư’ 54
sau những năm đầu ‘dựng
một mùa hoa’ rồi sau đó cũng lắng xuống
dần v́
những khó khăn của chính trị và
xă hội.
Nhạc sĩ Xuân Tiên th́ không
như vậy. Trước sau
ông vẫn rộn ràng với đất trời và con
người.
Có thể nói t́nh yêu
quê hương
và những con người của quê hương là hai
chủ đề
chính trong nhạc Xuân Tiên.
Ông tỏ bày
điều ấy rất hồn nhiên, thẳng thắn: ‘Ta
yêu nước ta, ta
yêu muôn đóa hoa.’. Những địa
danh của đất nước
v́ thế đă trở nên thân mật,
gần gũi và
tràn đầy sức sống:
‘Đi về Hà Tiên tắm biển xanh, qua đường
về Châu đốc,
G̣ công miền Tây lộng gió
trăng mơ
màng, lúa thơm hương nồng. Đây
ḍng Cửu long
vẫn oai hùng, Đây ḍng Đồng Nai vẫn
êm ấm…’
Ông không sáng tác nhiều về
t́nh ca
đôi lứa, nhưng lại chủ ư viết cho nhiều
đôi lứa, cho
nhiều con. Những con người trong nhạc của ông thường
là
những con người trẻ mà ‘t́nh
yêu nước nung nấu’, đi
bên nhau, thương yêu nhau, ngồn cạnh nhau trong
ánh
lửa hồng bếp cũ: Đi lớp lớp đi lớp lớp người đi, theo tiếng
gió
đưa tiếng hát gần xa.. ‘Người ơi mau về
đây, về bên
bếp hồng tay cầm tay..’
Những nhạc phẩm như thế thật rất quí hóa
v́
không có nhiều trong nhạc Việt Nam. Người ta
có thể
cùng nhau hát những ca khúc như vậy
trong những
buổi họp mặt chung với tâm hồn thật thoải mái.
Những bản
t́nh ca đôi lứa th́ chúng ta
không
thiếu, nhiều vô cùng, nhưng lại không
có chỗ
đứng trong các buổi sinh hoạt cộng đồng!
Thành công đặc biệt với những ca khúc
đi tới hết
sức tươi sáng như vậy, nhạc sĩ Xuân Tiên
quả
đă có vị trí của riêng
ông trong nền
âm nhạc miền Nam thời kỳ 54-75.
Nói như thế không có nghĩa
là ông chỉ
‘chuyên trị’ về nhạc vui. Ông
không đơn giản như vậy
đâu. Những bài hát mang sắc
thái nhớ nhung
về một mối t́nh xa xưa, về nỗi mất mát trong đời,
hay một
quá khứ vàng son không trở lại như Xa
Quê
Hương, Chờ Một Kiếp Mai, Hận Đồ Bàn…
đă được viết bằng
một loại ngôn ngữ gợi cảm, xa vắng và cất
cánh với
những âm điệu, tiết tấu rất cân phương
và
hoàn chỉnh.
Tôi rất ngạc nhiên là sau bao
nhiêu năm biến
đổi tôi và các bạn tôi vẫn
có thể nhớ
lại dễ dàng các bản nhạc t́nh cảm loại
này.
Những tác phẩm đă để lại dấu ấn sắc
nét trong
tâm hồn chúng ta như thế th́ phải
là những
nghệ phẩm rất đáng kể.
Ngày ấy, người đă từ phương Bắc ra đi vượt qua
con
sông dài, t́m ra ‘một
nhà thân
ái’ và từ đấy say măi trong
mối ‘duyên
t́nh’ này.
Ở vào thời điểm giao thừa của thiên niên
kỷ,
chúng ta dù ở nơi đâu, có lẽ
cũng vẫn hướng
về mái nhà thân ái ấy, vẫn
khát khao
thấy lại ánh lửa hồng bếp cũ với những ‘nụ cười
chan chứa, vai
kề vai’ mà quên đi những sông
dài, biển rộng
sau lưng.
Trần
Đ́nh Lương
Sydney, 11 - 99
|